Mục đích của giáo dục Phật giáo

Giáo lý của Đức Phật không phải là một triết lý lạnh lùng được thiết kế chỉ để sắp xếp lại các khái niệm trong tâm trí chúng ta; chúng là một hành động từ bi sống nhằm mục đích chỉ cho chúng ta cách mở rộng trái tim của chúng ta với phép màu của nhận thức.

Bishop Creighton đã từng nói: “Đối tượng thực sự của giáo dục là để cho một người đàn ông trong điều kiện liên tục đặt câu hỏi.” Hoặc như Bill Beattie nói: “Mục đích của giáo dục là dạy chúng ta cách suy nghĩ, hơn là nghĩ đến việc cải thiện trí óc, để cho chúng ta suy nghĩ về bản thân, hơn là tải bộ nhớ với những suy nghĩ về những người đàn ông khác.”Chính Đức Phật đã đạt được giác ngộ bằng cách suy nghĩ làm thế nào để giải quyết các vấn đề và ngăn chặn sự đau khổ (sanh, già, bệnh, chết) của con người.

Do đó, giáo lý của Đức Phật không phải là một triết lý lạnh lùng được thiết kế chỉ để sắp xếp lại các khái niệm trong tâm trí chúng ta; chúng là một hành động từ bi sống nhằm mục đích chỉ cho chúng ta cách mở rộng trái tim của chúng ta với phép màu của nhận thức. Thay đổi nhận thức của chính chúng ta trong nhận thức của người khác thông qua cùng suy nghĩ và kinh nghiệm thực tiễn.Trong xã hội ngày nay, giáo viên và cha mẹ đều ủng hộ việc giáo dục bằng lời nói yêu thương, bằng cách sử dụng những từ ngữ tốt đẹp và dịu dàng. Thông thường, các trường phái thiền không dùng từ ngữ nhưng hướng dẫn con người đối mặt với sự im lặng. Im lặng như tiếng sấm, là vĩ đại và oai vệ, to lớn và giàu có hơn ngôn ngữ. Các học viên có thể dễ dàng suy nghĩ trong im lặng giúp họ tìm ra câu trả lời.

Mục tiêu của giáo dục Phật giáo là đạt được trí tuệ.

Mục tiêu của giáo dục Phật giáo là đạt được trí tuệ.

 

Việc giảng dạy và học tập trong trường truyền thống Phật giáo đã được chú ý rất nhiều đến việc truyền tải từ giáo viên đến sinh viên, và dạy học và học để đạt được sự khai sáng. Nên các trường thiền khuyến khích học viên bắt đầu nghi ngờ. Một chút nghi ngờ sẽ dẫn đến một sự nhận thức nhỏ. Một nghi ngờ lớn sẽ tạo ra một sự thật tuyệt vời. Không nghi ngờ gì, sẽ không có sự thật. Vì vậy các thiền sư luôn cho học viên khó khăn và khó khăn để nghiên cứu.

Trong Phật giáo nhấn mạnh rằng một người nên tự mình xác định mọi thứ và không bị dắt mũi hay bị ảnh hưởng bởi ý kiến của người khác. Tự thực hiện bản chất bên trong là quan trọng. “Không có sự quyết tâm của riêng mình, một người đàn ông sẽ không chỉ đơn giản là sao chép cách thức của Phật (Buddha)”. Đây là những gì đặc trưng cho sự tự giác của Phật giáo.

 

Như nhà giáo dục học người Nga Emma Goldman đã nói: “Không ai nhận ra sự giàu có của sự cảm thông, lòng tốt và sự rộng lượng ẩn giấu trong tâm hồn của một đứa trẻ. Nỗ lực của mọi nền giáo dục là trao chìa khóa để mở kho báu đó.” Hoặc nhà văn học Nga Ayn Rand đã nói: “Mục đích duy nhất của giáo dục là dạy cho một sinh viên cách sống, cuộc sống của mình bằng cách phát triển tâm trí và trang bị cho anh ta để đối diện với thực tế. Việc đào tạo anh ta cần là lý thuyết, tức là về mặt khái niệm. Anh ta phải được dạy để suy nghĩ, để hiểu, để hòa nhập, để chứng minh. Anh ta phải được dạy những điều cốt yếu của kiến thức được khám phá trong quá khứ và anh ta phải được trang bị để có thêm kiến thức bằng nỗ lực của chính mình...”.

Mục tiêu của giáo dục Phật giáo là đạt được trí tuệ. Trong tiếng Phạn, ngôn ngữ của Ấn Độ cổ đại, trí tuệ Phật giáo được gọi là Anuttara-samyaksambhodi, có nghĩa là trí tuệ tối thượng hoàn hảo có thể nhận thức được tất cả các chân lý và thực tế của cuộc sống. Đức Phật dạy chúng ta rằng mục tiêu chính của sự thực hành hay tu luyện của chúng ta là đạt được trí tuệ tối thượng này. Ngài nói thêm với chúng tôi rằng mọi người đều có khả năng nhận ra trạng thái hiểu biết tối thượng này, vì nó là một phần nội tại trong bản chất của chúng ta, không phải là thứ mà người ta có được bên ngoài.

 

Tuy nhiên, hầu hết chúng ta đã trở nên bối rối bỏ qua những quan niệm sai lầm chung và do đó không thể nhận ra tiềm năng này. Vì vậy nếu chúng ta vượt qua sự nhầm lẫn này, chúng ta sẽ nhận ra phần nội tại này trong bản chất của chúng ta. Do đó, Phật giáo là một hệ thống giáo dục nhằm lấy lại bản chất bên trong của chúng ta. Nó cũng dạy sự bình đẳng tuyệt đối bắt nguồn từ đó. Đức Phật thừa nhận rằng tất cả chúng sinh đều sở hữu trí tuệ và tự nhiên bẩm sinh này. Không có sự khác biệt vốn có giữa chúng sinh. Trong kinh Pháp hoa có câu: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.”

Cốt lõi của Phật giáo chứa ba điểm chính: đạo đức, thiền định và trí tuệ (giới - định - tuệ). Trí tuệ là mục tiêu và thiền sâu hay tập trung là quá trình quan trọng để đạt được trí tuệ. Đạo đức thông qua việc tuân thủ giới luật là phương pháp giúp người ta đạt được thiền định sâu sắc; trí tuệ sau đó sẽ được thực hiện một cách tự nhiên. Toàn bộ giáo lý Đức Phật được truyền đạt trong kinh điển không bao giờ xa rời ba điều này. Văn học Phật giáo bao gồm các tác phẩm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết được gọi là Tam tạng kinh điển. Điều này có thể được phân thành ba loại: Kinh (Sutra), giới Luật (Vinaya) và Luận (Satra) nhấn mạnh đến thiền định, đạo đức và trí tuệ.

 

Mục đích của giáo dục Phật giáo là hỗ trợ đạt được tự do tinh thần, từ bi và trí tuệ. Thật vậy, trong Kinh Hoa Nghiêm(Avatamsaka) nói rằng: “Tất cả mọi thứ được tạo ra bởi tâm trí của mình”. Bản thân không phải là một thực thể hay đơn vị hoàn chỉnh cho chính nó mà là một luồng năng lượng (nghiệp lực) có các yếu tố luôn thay đổi. Do đó, Đức Phật đã tạo thành một vũ trụ hoàn toàn phi thường, nơi không có Nguyên nhân đầu tiên hoặc Đấng sáng tạo tối cao, chỉ có một quá trình vô định mà bản chất tối thượng của họ chỉ có thể được xem như là một dòng chảy liên tục.

Điều này logic hình thành nền tảng của lý thuyết Phật giáo về tự tánh, có lẽ là một trong những đặc điểm độc đáo nhất. Lý thuyết tự tánh đóng một vai trò rất quan trọng trong cấu trúc giáo dục Phật giáo bởi vì nó không chỉ giải phóng cá nhân khỏi sự phụ thuộc vào các tác động bên ngoài, không phụ thuộc vào một đấng tối cao, ân sủng, kinh điển, v.v… bằng cách khuyến khích tiếp xúc trực tiếp với con người thật, hay Phật tánh, nhưng cũng dẫn đến kết quả cao, ý thức tôn trọng những chúng sinh khác, cũng như quan điểm của họ, vì họ cũng sở hữu Phật tánh. Rõ ràng giáo lý này không chỉ có lợi cho cá nhân, mà sự tôn trọng và khoan dung lẫn nhau từ thái độ này cũng là những phẩm chất đáng mong muốn trong một xã hội đa nguyên.

Giáo dục tốt phải có nhận thức, tình cảm và hành vi. Như tiến sĩ Eric Hoffer nói: “Nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục là lồng ghép ý chí và phương tiện học tập; nó nên đưa ra tính cách không học mà thành có học. Xã hội loài người thực sự là một xã hội học tập, nơi ông bà, cha mẹ và con cái là học sinh”. Mục tiêu của giáo dục Phật giáo dù là hiện đại hay truyền thống đều đưa học sinh đến trạng thái giải phóng này. Phương thức kỹ thuật, hay tâm linh phải kết hợp ba khía cạnh khác nhau: Đức tin là niềm tin vào Phật tính (Buddhanature), liên quan đến niềm tin cảm xúc và niềm vui về khả năng được giải thoát khỏi đau khổ; sự hiểu biết tức là kiến thức về kinh điển Phật giáo, về cơ bản là Tứ diệu đế, là một cách tiếp cận trí tuệ đối với mục tiêu; và thực hành tức là áp dụng Bát chánh đạo, liên quan đến các vấn đề đạo đức. Đức tin là sự hiểu biết và thực hành tạo thành nền tảng, hoặc quá trình của giáo dục tôn giáo trong Phật giáo. Vì vậy giáo dục tốt phải là nhận thức, tình cảm và hành vi.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thiết lập hệ thống giáo dục thường xuyên cho học trò của mình. Nhiều đệ tử của Đức Phật đã hoàn thành tốt chỉ dẫn. Hàng năm, những đệ tử này được phân công giảng dạy ở những nơi khác nhau trong chín tháng. Trong mùa mưa, tất cả các học sinh sẽ quay lại gặp Đức Phật để nhận thêm những giáo lý và học hỏi lẫn nhau trong các cuộc thảo luận trên lớp. Chúng ta thường gọi là mùa An cư của chư Tăng hiện nay. Hệ thống giáo dục liên tục hiện đại là cần thiết bởi sự tiến bộ trong công nghệ. Tuy nhiên hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Đức Phật đã áp dụng ý tưởng này trong việc đưa các sinh viên của mình trở lại để giảng dạy thêm.

Phật giáo không chỉ là một nỗ lực cả đời, mà thực sự bắt đầu trong khi đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ. Trong xã hội Phật giáo, phụ nữ theo truyền thống được khuyến khích để chuẩn bị tinh thần ít nhất một năm trước khi mang thai để đảm bảo rằng họ sẽ thu hút một ý thức phát triển tâm linh khi việc thụ thai diễn ra. Sau đó, trong thời gian mang thai, người mẹ được khuyến khích không đến những nơi ảnh hưởng không tốt của môi trường bên ngoài. Mà luôn luôn tâm nguyện cầu bình an, và thanh lọc bản thân, để đứa trẻ lớn lên trong mình sẽ chỉ tiếp xúc với những ảnh hưởng từ những điều tốt đẹp. Điều này được gọi là giáo dục của đứa trẻ trong bụng mẹ. Trong ít nhất ba năm sau khi sinh, cha mẹ Phật giáo nên bảo vệ con mình khỏi mọi ảnh hưởng tiêu cực, chẳng hạn như tức giận, ngôn ngữ xấu v.v…

Các vấn đề được đề cập ở trên cho thấy sự đa dạng của niềm tin về mục đích của giáo dục. Làm thế nào bạn có thể hoàn thành câu hỏi, mục đích của giáo dục là gì? Nếu bạn yêu cầu mười giáo viên trả lời câu hỏi đó, có khả năng bạn sẽ có mười câu giải đáp khác nhau. Tuy nhiên, người giáo viên có niềm tin vào mục đích giáo dục của họ. Phật giáo không chỉ bao gồm toàn bộ sự đa dạng của niềm tin về mục đích giáo dục, mà còn đào tạo giáo viên rất nghiêm ngặt và yêu cầu họ phải có những hành vi đúng đắn bằng cách tuân thủ giới luật. Mục đích của Phật giáo là truyền đạt kinh nghiệm, khám phá tiềm năng và cung cấp cho tất cả chúng sinh (học viên) con đường tự giải thoát.

TS.BS. Trần Đức Năm (Thích Lệ Di)
Nguồn: phatgiao.org.vn
 

Tin cùng chuyên mục