Thiền - phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc

Phần bàn về phép trị bệnh trong Tu tập tọa thiền chỉ quán, Trí Khải đại sư cũng viết “phép tọa thiền nếu khéo dùng tâm thì 404 bệnh tật tự nhiên lành” hoặc “Trị bệnh tuy có nhiều cách, tóm lược đều không ngoài hai phương tiện Chỉ và Quán”.

Đức Phật được tôn xưng là một vị Đại Y Vương vì Ngài đã vạch ra được những con đường giúp con người thoát ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử. Tuy nhiên, không phải đến khi “liễu thoát sinh tử” mới khỏi được bệnh khổ. Ngay phần đầu của bộ Tâm kinh, giáo lý nhà Phật đã minh thị “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách “. Không nhất thiết là ở đâu hoặc lúc nào, một khi đã thể nhập vào vị trí tuệ Bát nhã, quán thấy ngũ uẩn đều là không thì bệnh khổ ắt sẽ không còn.

Kinh Tạp A Hàm, đoạn ghi lại của phần trả lời của Ma na Đề Na cho tôn giả A Na Luật đã cho thấy một cách trị bệnh cụ thể và dễ thực hành hơn. Đó là “Nhờ buộc tâm vào Bốn niệm xứ nên mọi thứ bệnh tật, khổ đau nơi thân đều được đình chỉ”. Phần bàn về phép trị bệnh trong Tu tập tọa thiền chỉ quán, Trí Khải đại sư cũng viết “phép tọa thiền nếu khéo dùng tâm thì 404 bệnh tật tự nhiên lành” hoặc “Trị bệnh tuy có nhiều cách, tóm lược đều không ngoài hai phương tiện Chỉ và Quán”.

Tại sao Chỉ hoặc Quán trong tọa thiền lại có thể chỉ được bệnh? Liệu những điều này có mâu thuẫn gì với lý luận của nhiều nền ý học chính thống chăng? Có thể trả lời được câu hỏi này nếu chúng ta hiểu được tác động của tâm lý, cảm xúc và vai trò của hệ thần kinh đối với sức khỏe con người.

 

Đức Phật được tôn xưng là một vị Đại Y Vương vì Ngài đã vạch ra được những con đường giúp con người thoát ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử.

Đức Phật được tôn xưng là một vị Đại Y Vương vì Ngài đã vạch ra được những con đường giúp con người thoát ra khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử.

Stress là một yếu tố gây bệnh

Đối với y học phương Tây, tác nhân tâm lý được xem là một yếu tố gây bệnh, được Cullen nói đến vào khoản năm 1776 với tên gọi là rối loạn thần kinh chức năng. Sau đó, năm 1936, giáo sư Hens Selye, người sáng lập viện chống stress ở Montreal, Canada đã chính thức dùng thuật ngữ stress để chỉ những của cơ thể đối với những yếu tố gây khó chịu trong môi trường sống. Sớm hơn nhiều so với phương Tây, trên cơ sở những lý luận về khí và khí hóa, các nhà y gia của phương Đông đã sớm nhận ra những ảnh hưởng của những cảm xúc tiêu cực lên sức khỏe của con người.

Hàng ngàn năm trước, sách Nội kinh, một quyển sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa đã ghi nhận “bách bệnh giai sinh vu khí”. Người xưa cho ràng những cảm xúc thái quá của bảy loại tình chí (hỉ, nộ, ái, ố…) sẽ làm rối loạn khí hóa của những tạng phủ tương ứng. Chẳng hạn “Ưu thương Tỳ”, “Khủng thương Thận”, “Nộ thương Can”…

Do đó, những rối loạn này chính là nguyên nhân của những bệnh về nội thương. Đôi khi những rối loạn khí hóa do cảm xúc có thể gây ra những triệu chứng bệnh ký có thể thấy được ngay. Thử quan sát một người đang bộc phát cơn tức giận: toàn thân nóng lên, mồ hôi vã ra, nhịp tim tăng, hơi thở gấp, các cơ bắp như tăng lên. Ở một số người khác, cơn nóng giận sẽ làm cho toàn thân ngứa ngáy, áp huyết tăng, đau thoát ở ngực hoạc như bị bóp chặt ở bao tử.

 

Thiền là biện pháp đối trị của những chứng bệnh tâm thể

Thiền là những phương pháp tập trung tư tưởng, buộc tâm vào một đối tượng nhất định nhằm tạo ra hiệu ứng ức chế, nghỉ ngơi trên toàn bộ vỏ não.

Thiền là những phương pháp tập trung tư tưởng, buộc tâm vào một đối tượng nhất định nhằm tạo ra hiệu ứng ức chế, nghỉ ngơi trên toàn bộ vỏ não.

Trong thời đại ngày nay, để tồn tại và phát triển trước một cuộc sống nhiều thách thức và một môi trường luôn thay đổi, con người phải đối mặt với nhiều áp lực tâm lý. Chính những yếu tố gây stress là nguyên nhân của nhiều bệnh tật. Stress có thể làm rối loạn tiêu hóa, tim mạch, rối loạn nội tiết, làm suy giảm khả năng miễn dịch khiến cơ thể dễ bị bệnh tật tấn công hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đang tiềm tàng.

Trong những trường hợp này, việc giải tỏa stress, điều hòa được cảm xúc phải là ưu tiên hàng đầu. Nói chung, thư giãn hay căng thẳng, tập trung tư tưởng vào một sự kiện này hay chuyển sang một sự kiện khác là khả năng tự nhiên ở mỗi con người.

Tuy nhiên, ở một số trường hợp bệnh lý, khi hệ thần kinh đã quá tải, đã vượt quá giới hạn để tự hồi phục, tự điều chỉnh thì người bệnh cần một quá trình tập luyện hoặc điều trị. Trong những trườp hợp này, Thiền là một liệu pháp đối trị trực tiếp và hữu hiệu. Ông Herbert Benson, giáo sư Đại học Harvard, người sáng lập Viện Y học Tâm thể ở Boston (Mind – Body Medical Institute) cho biết: “Từ 60% đến 80% số lượng bệnh nhân đến khám ở các phòng mạch đều có liên quan đến stress. Các ca bệnh này đáp ứng rất kém đối với thuốc và phẫu thuật nhưng lại rất tốt đối với các liệu pháp tiếp cận tâm thể”. Ông cho rằng các liệu pháp thư giãn và Thiền làm giảm sự căng cơ, giúp giải tỏa những tình trạng lo âu, sợ hãi, bất an, dễ bị kích thích và đặc biệt là làm giảm hoạt hóa các nội tiết tố stress.

Thiền là những phương pháp tập trung tư tưởng, buộc tâm vào một đối tượng nhất định nhằm tạo ra hiệu ứng ức chế, nghỉ ngơi trên toàn bộ vỏ não. Stephanie Clement và Cary Barbor, những chuyên gia trong lĩnh vực điều trị tâm lý đã cho biết: “Những nghiên cứu trên những đối tượng chỉ cần thực hành thiền ngắn hạn (khoảng 10 phút mỗi lần) nhưng đều đặn hàng ngày đều cho thấy có sự gia tăng sóng Alpha và sự giảm bớt tình trạng lo âu, trầm uất”. Sóng Alpha là sóng não ứng với tình trạng thư giãn cơ bắp và tinh thần không căng thẳng.

 
Trong những trường hợp này, việc giải tỏa stress, điều hòa được cảm xúc phải là ưu tiên hàng đầu. Nói chung, thư giãn hay căng thẳng, tập trung tư tưởng vào một sự kiện này hay chuyển sang một sự kiện khác là khả năng tự nhiên ở mỗi con người.

Trong những trường hợp này, việc giải tỏa stress, điều hòa được cảm xúc phải là ưu tiên hàng đầu. Nói chung, thư giãn hay căng thẳng, tập trung tư tưởng vào một sự kiện này hay chuyển sang một sự kiện khác là khả năng tự nhiên ở mỗi con người.

Do cơ chế tương tác thần kinh, thể dịch và nội tạng, sự nghỉ ngơi của vỏ não sẽ phục hồi tính tự điều chỉnh của hệ thần kinh nên có tác dụng cải thiện đến toàn bộ các cơ quan. Chẳng hạn ở hệ tim mạch, Cary Barbor cho biết: “Trong khi ở những người bình thường, đáp ứng chống trả hoặc bỏ chạy kéo dài sẽ kích hoạt sự tăng tiết Adrenaline, gia tăng nhịp tim và những nguy cơ máu đông thì ngược lại, những đáp ứng thư giãn sẽ làm giảm chuyển hóa, giảm nhịp tim, hạ thấp sóng não và cải thiện những triệu chứng của bệnh tim mạch”.

Hiện nay có một phương pháp thiền đã được chính thức đưa vào giảng dạy và thực hành lâm sàng tại nhiều trường đại học y ở phương Tây, kể cả một số trường đại học lớn ở Mỹ như Umass, Stanford, Duke, Virginia, San Francisco… Và MBSR “MindfuIness Based Stress Reduction” (Giảm stress dựa trên sự tỉnh giác) được xem là một liệu pháp bổ sung giúp điều chỉnh tinh thần, cảm xúc và cải thiện sức khỏe.

Đây là một kỹ thuật thiền định nhằm phát triển chánh niệm, tức khả năng nhận biết điều già đang xảy ra nơi thân hoặc tâm, qua đó có thể làm chủ được bản thân và điều hóa cảm xúc. MBSR đã được giáo sư Jon Kabat – Zinn khởi xướng đưa vào thực hành lâm sàng từ đầu những năm 1970. Hiện nay. Trung tâm Y học và Giáo dục Tỉnh Giác CFM (the Center For Mindfulness in Medicine, Healh Care and Society) thuộc trường Đại học Y Massachusetts (UMASS), được xem là cơ sở y tế lớn nhất và lâu đời nhất ở Mỹ trong lĩnh vực quảng bá, giáo dục và điều trị bằng MBSR.

Cho đến nay, hàng chục ngàn người đã được hưởng lợi từ chương trình huấn luyện và điều trị này. Kết quả cho thấy, MBSR giúp điều trị những bệnh về tim mạch, các chứng đau nhức mãn tính, rối loạn chức năng, dạ dày ruột, chứng đau nửa đầu, cao huyết áp, mất ngủ, lo âu, hoảng loạn… Hiện nay, trên thế giới đã có hơn 200 bệnh viện hoặc cơ sở y tế có thực hành điều trị bằng MBSR.

 

 Thiền là một liệu pháp chỉnh thể
Tóm lại, Thiền có thể chữa bệnh, khổ là một hiện thực. Vấn đề còn lại là ý chí và khả năng tập trung tư tưởng của người bệnh. Điều này còn tùy thuộc vào căn cơ và các điều kiện trợ duyên khác như chế độ ăn uống, sinh hoạt, giao tiếp…

Tóm lại, Thiền có thể chữa bệnh, khổ là một hiện thực. Vấn đề còn lại là ý chí và khả năng tập trung tư tưởng của người bệnh. Điều này còn tùy thuộc vào căn cơ và các điều kiện trợ duyên khác như chế độ ăn uống, sinh hoạt, giao tiếp…

Mỗi triệu chứng, mỗi bộ phận cơ thể đều phải được xem xét và điều chỉnh trong mối tương quan chung nhằm mang lại sự cân bằng và hài hòa cho cả tổng thể. Về mặt này, với ý nghĩa hòa hợp hay hợp nhất giữa các mặt tổ chức trong cơ thể, hợp nhất giữa thân và tâm và cuối cùng là giữa con người và vũ trụ. Thiền là là đỉnh cao của liều pháp chỉnh thể và cũng là chỗ gặp nhau giữa y học và các nền học khác của phương Đông.

Các phương pháp ngồi thiền, luyện khí công, tập yoga đều có tác dụng thanh lọc, điều chỉnh để chữa bệnh hoặc cải thiện sức khỏe. Về mặt thần kinh, thông qua quá trình thư giãn và nội quán, Thiền duy trì trạng thái yên tĩnh của đại não, có thể điều hòa thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh và tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương. Đây cũng là một cơ chế mang tính chỉnh thế vì sự hài hòa và hoàn thiện của hệ thần kinh sẽ tác động trở lại để điều hoà nội tiết, nội tạng, tái lập tình trạng khí hòa bình thường để phục hồi sức khỏe.

Cũng vì lý do này, những liệu pháp thư giãn và thiền không những có hiệu quả trên những tâm thể mà còn có thể nâng cao sức miễn dịch và tăng cường lưu thông khí huyết để giúp cải thiện cả những cơ quan đã bị tổn thương. Ngoài ra, người hành thiền có thể vận dụng hoặc Chỉ, hoặc Quán để tạo ra những hiệu quả cụ thể tùy theo chứng trạng. Với phép Chỉ, căn cứ vào quy luật “thần đâu khí đó”, người tập có thể an tâm vào một vị trí nhất định trong cơ thể để tăng cường khí huyết đến nơi cần thiết. Ví dụ: An tâm vào một chỗ đau để giải tỏa đau nhức, an tâm vào huyệt tố liêu ở chớp mũi để trị áp huyết thấp hoắc an tâm tại huyệt đan điền ở bụng dưới để chữa những chứng căng thẳng tâm lý hoặc âm hư gây ra nhức đầu, khó ngủ, hồi hộp, áp huyết cao.

Có rất nhiều nghiên cứu về hiệu ứng vật lý của những suy nghĩ tích cực. Đáng kể nhất là công trình nghiên cứu của bác sĩ Carl Simonton về điều trị ung thư. Ông hướng dẫn cho bệnh nhân thư giãn và hình dung những bạch cầu của họ là những chiến sĩ “tìm và diệt”. Đội quân dũng mãnh chiến đấu, chiến thắng và mang đi các ung thư đã chết. Công trình nghiên cứu trên 110 bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối đã cho kết quả 25% hoàn toàn khỏi bệnh, 30% ung thư ngừng phát triển và ở 10% khác khối ung thư bắt đầu nhỏ dần.

Tóm lại, thiền có thể chữa bệnh, khổ là một hiện thực. Vấn đề còn lại là ý chí và khả năng tập trung tư tưởng của người bệnh. Điều này còn tùy thuộc vào căn cơ và các điều kiện trợ duyên khác như chế độ ăn uống, sinh hoạt, giao tiếp…

 

Tác giả: Lương y Võ Hà

Nguồn: Tạp chí Văn hóa Phật giáo

 

Tin cùng chuyên mục