Thiền và Yoga rất khác biệt nhau. Thiền là lắng đọng tâm tư, đi vào bên trong để thấy chính mình, và tìm cách thoát ra ngoài các phiền não và mộng tưởng điên đảo để, trong hiện tại thì thoát khỏi tam độc tham sân si làm cho cuộc đời bớt khổ bớt bệnh tật (Thiền Sức khỏe).
Nhiều người chưa biết rõ những khác biệt giữa Thiền và Yoga, đôi lúc họ nói, tôi đang Thiền, người khác cho biết tôi đang tập Yoga. Có người nghĩ Thiền và Yoga giống nhau. Người khác nói hai thứ rất khác biệt.
Trước hết, chúng ta nên biết nghĩa hai từ Thiền và Yoga. Tiếp theo là biết căn nguyên hai từ nầy phát xuất từ đâu.
Yoga bắt nguồn từ cổ ngữ Sankrist, có nghĩa là hợp nhất (union). Tức là kết nối giữa linh hồn (soul) và Thần linh (Spirit) hay giữa cá thể (individual) và vũ trụ ( universe). Mặt khác, Yoga không những chỉ có nghĩa là diễn tả trạng thái kết hợp mà còn có nghĩa là đạt được trạng thái kết hợp ấy.
Tập yoga
Patanjali, một hiền triết cổ đại, được xem là người tạo lập Tám Nhánh của Yoga (the Eight Limbs of Yoga). Gồm có:
1. Yama (Do’s) [Bước]
2. Niyama (Don’ts) [Lùi]
3. Asanas (Positions) [Đứng]
4. Pranayama (Control of breath or Life Force) [Nín thở]
5. Pratyahara (Sense Withdrawal) [Hủy cảm]
6. Dharana (Concentration) [Tập trung]
7. Dhyana (Meditation) [Trầm tư] and 8. Samadhi (Spiritual Ecstasy) [Xuất thần].
Tám nhánh của Yoga (Eight Limbs) dần dà bị biến thái, nhiều tác giả diễn nghĩa 8 nhánh ít có sự tương hợp với nhau. Tìm trên internet tiếng Anh cũng như tiếng Việt, chúng ta sẽ thấy nhận định trên. Chú thích cuối trang là một thí dụ.
Nhiều quốc gia Tây phương nhất là Mỹ, cởi mở hơn, theo Thiền nhiều hơn Yoga. Họ ồ ạt đưa Thiền vào bệnh viện, trường học, trại tù, xí nghiệp, và ngay cả bộ Quốc phòng... Ở Việt Nam, đa số quần chúng nghĩ nhầm rằng, Thiền chỉ giành cho các nhà tu trong chùa. Vì thế, Yoga, hình như, được dân chúng sử dụng nhiều hơn Thiền. Đa số ít biết, ngoài phần luyện tập thể lực, Yoga sử dụng Thiền để đạt được kết quả chữa trị bệnh tật, tăng cường sức đề kháng..
Trên hệ thống điện tử toàn cầu, có liệt kê sơ lược một số lợi ích của Yoga như: giảm căng thẳng, giảm cân, tăng gia năng lực và hệ miễn nhiễm, thể hình tươi đẹp. Đúng ra là có nhiều hơn nữa.
Dần dà nguyên sơ trôi về với dĩ vảng, Yoga phần lớn biến thành thương mãi, nhưng vẫn ít thu hút được người lớn tuổi và thành phần có lợi tức thấp. Mỗi ngày, trung bình các thành viên Yoga tập khoảng hai giờ. Tốn phí từ 500-800 ngàn tiền Việt, tùy theo địa phương.
Thiền (Sanskrit: Dhyana) là tỉnh lặng, là sự tập trung tâm chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ một điều gì khác (Thiền Chỉ), hoặc Tâm dõi theo hơi thở vào, hơi thở ra (Thiền Quán).
Thiền phát xuất từ Phật Thích Ca. Thái tử Tất Đạt Đa (Gô Ta Ma) sáu năm liên tục tu khổ hạnh với các đạo sĩ danh tiếng của Ấn Giáo và Bà La Môn. Thái tử nhận thấy lối tu khổ hạnh và trầm tư để thể nhập với Thần linh, của hai tôn giáo nầy, không thể đưa con người ra khỏi bệnh tật và khổ đau. Do vậy, Ngài rời bỏ các bạn đồng tu, đến một gốc cây đại thụ, tĩnh tọa tham Thiền liên tục 49 ngày đêm và Thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm. Thiền Phật Giáo bắt nguồn từ đó.
Thiền mà Phật dạy cho các đệ tử, có hai giai đoạn chính, tôi tạm gọi là hai loại Thiền; Giai đoạn đầu là Thiền thể nhập với thế gian (Phật pháp bất ly thế gian pháp) để người thực hành đạt được sự an lạc của tâm và mạnh khỏe của thân. Tôi gọi là Thiền Sức Khỏe (Meditation for health), và Thiền Giác Ngộ (Meditation for Enlightenment).
Cách thực hành và ích lợi của Thiền Sức Khỏe được mô tả trong nhiều bộ kinh của đạo Phật như, kinh Tứ Niệm Xứ, kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh An Ban Thủ Ý... Thực tế, Tất cả kinh điển của nhà Phật đều quy về một đích điểm là Định trong pháp môn Thiền Định.
Thiền Giác Ngộ (Meditation for Enlightenment) thường dành cho những người có trình độ Phật học cao, thường là các nhà Sư. Mục đích của Thiền Giác Ngộ là để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Ngày nay khoa học sử dụng các loại máy tân tiến và tìm thấy Thiền trong kinh điển Phật Giáo có vô số diệu dụng. Từ việc giúp chữa trị các bệnh thuộc hệ tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, ung thư, sida, hệ thần kinh, mất ngủ, chấn thương sau thời hậu chiến v.v..cho đến những lợi ích làm tăng năng lực, trí nhớ, sắc đẹp, chữa bệnh hiếm muộn, bệnh chợ chưa đi mà tiền đã hết. Hơn thế nữa, Thiền giúp phát triển kinh tế, xí nghiệp, cải tiến nhân sinh, sống đời có hạnh phúc và an lạc hơn. Có sáu loại Thiền khác nhau tùy theo mục đích:
- Thiền Chính niệm (Mindful meditation)
- Thiền Quán tưởng (Reflective meditation)
- Thiền Niệm chú (Mantra mediation)
- Thiền Chú ý Tập trung (Focused meditation)
- Thiền quán tưởng hình ảnh (Visualisation meditation)
- Thiền thở (Breath meditation)
Hành giả chọn một trong sáu loại nói trên.
Thiền và Yoga rất khác biệt nhau. Thiền là lắng đọng tâm tư, đi vào bên trong để thấy chính mình, và tìm cách thoát ra ngoài các phiền não và mộng tưởng điên đảo để, trong hiện tại thì thoát khỏi tam độc tham sân si làm cho cuộc đời bớt khổ bớt bệnh tật (Thiền Sức khỏe). Tương lai, hành giả hy vọng vượt thoát vòng sinh tử luân hồi (Thiền Giác ngộ).
Tất cả các loại thiền tập đều không tốn tiền, không tranh giành với ai, không sợ cạn kiệt nguồn thiền. Mỗi ngày chỉ cần Thiền vài chục phút là có kết quả chữa trị vô số bệnh tật, như khoa học đã chứng minh mà tôi trích dẫn rất nhiều chứng cớ trong tác phẩm nầy. Ngoài ra, đi đứng nằm ngồi, suy nghĩ và hành động luôn luôn chính niệm (mindfulness) trong tinh thần Tứ vô lượng tâm và Bát chính đạo như đã trình bày bên trên. Đó là Thiền Chính Niệm.
Còn Yoga, nguyên thỉ là một lối tu để thể nhập giữa cá nhân với vũ trụ, giữa linh hồn với Thần linh. Hiền triết Patanjali tạo lập Yoga có 8 nhánh. Những động tác trong 8 nhánh nầy như bước tới, lùi, đứng, nín thở, hủy cảm, trầm tư, tập trung và xuất thần, có tác dụng làm cho người thực tập mạnh khỏe và chữa trị được một số bệnh tật. Nhưng hiệu quả thì không thể sánh với Thiền, nhất là Thiền Chính Niệm (Mindfulness Meditation). Thêm vào đó, phần tập thể lực thì không thích hợp cho người lớn tuổi, mỗi ngày tập 2 giờ và học phí khoảng từ 500- 800 ngàn đồng mỗi tháng tùy theo vùng.