Pháp ở trong tất cả chúng ta. Cho dù bạn có nhận ra nó hay không, nó vẫn có mặt. Cho dù bạn có quan sát nó hay không, nó vẫn ở đó. Vấn đề đơn giản là liệu bạn có biết cách giải mã nó hay không. Một khi bạn biết các giáo lý của Đức Phật, bạn có thể tự giải mã, giống như cách bạn tập đọc một quyển sách.
Thí dụ một đứa bé chưa biết gì cả: Ngay khi được sinh ra, nó sẽ khóc oa oa, đó là cảm thọ. Nếu bé đang ăn mà gặp thứ gì không thích, nó sẽ nhổ ra và tìm thứ ngon hơn, đó là hành. Khi lớn hơn nữa, đứa trẻ có thể bắt đầu nhớ mọi thứ, đó là tưởng. Vì vậy, Pháp ở trong tất cả mọi người. Vậy tại sao chúng ta phải học chúng? Ta học để biết tên của sự vật, để cuối cùng ta có thể loại bỏ các tưởng, các nhận thức, cũ, mới, quá khứ và tương lai. Đây là lý do tại sao chúng ta phải thực hành giới, định và tuệ để có thể trở nên quen thuộc với năm uẩn. Đó là ý nghĩa của thiền quán. Định tâm là việc bạn phải thực hiện. Thiền quán là buông bỏ. Khi giới là nhân, định sẽ là quả. Khi định là nhân, tuệ sẽ là quả. Khi tuệ là nhân, giác ngộ sẽ là quả.
- Các kỹ năng tuệ giác không thể dạy. Cùng lắm, bạn có thể dạy người ta thực hành thiền, nhưng bạn không thể dạy họ tuệ giác.
- Bạn phải thực hành trước khi bạn có thể “hiểu”. Bạn phải hiểu trước khi bạn có thể buông. Bạn phải khiến nhân phát sinh, thì sau đó các quả sẽ tự đến.
- Khi ta liên tục chạy loanh quanh dưới nắng, ta không nhận ra trời nóng đến thế nào. Nếu muốn biết trời nóng như thế nào, bạn phải ngồi giữa đồng trống khoảng năm phút dưới ánh nắng mặt trời cực mạnh. Đó là lúc bạn sẽ biết sức nóng mặt trời như thế nào. Với phiền não, khổ đau cũng thế. Nếu tâm cứ nhảy múa không dừng nghỉ, nó không thực sự thấy phiền não, khổ đau. Nếu muốn cảm nhận được những điều đó, trước hết tâm phải tĩnh lặng.
- Định giống như tấm gương để ta soi rọi bản thân rõ ràng. Tuệ giống như chiếc kính viễn vọng, để những vật nhỏ sẽ được phóng lớn lên, và đưa ra xa những thứ ở gần.
- Bạn phải ngừng tìm kiếm - nói cách khác, tâm cần tĩnh lặng - trước khi bạn có thể phát sinh tuệ. Tìm kiếm là vô minh.
- Sự hiểu biết bạn có được từ việc nghe và đọc (văn tuệ) giống như người đã thức giấc nhưng chưa mở mắt. Anh ta chưa nhìn thấy ánh sáng, nên phải mò mẫm xung quanh một cách không chắc chắn, đôi khi chạm đúng, đôi lúc nắm sai cái mình muốn tìm. Sự hiểu biết bạn có được từ suy tư (tư tuệ) giống như người đã thức dậy nhưng chưa ra khỏi mùng, chưa rửa mặt. Cái nhìn của bạn lờ mờ, không rõ ràng. Còn sự hiểu biết bạn có được từ thiền định (tu tuệ), giống như người đã ra khỏi mùng, đã rửa mặt để có thể nhìn thấy mọi thứ rõ ràng. Đây là loại hiểu biết cao nhất. Hãy cố gắng phát triển nó.
- Để sự hành thiền của ta được kết quả trọn vẹn, tâm phải làm chủ. Chánh niệm là cái thực hiện điều đó và hỗ trợ trong việc phát triển mọi hoạt động của ta, trong khi sự tỉnh giác là cái quan sát, theo dõi kết quả các việc làm của ta. Trong Tứ niệm xứ, các phẩm chất này được gọi là chánh niệm và tỉnh giác. Trong thiền-na (jhāna), chúng được gọi là sự hướng tâm và phân định. Chúng là những phẩm chất làm phát sinh tuệ.
Tuệ đến từ việc quan sát nhân quả. Nếu ta biết quả mà không biết nhân, là ta thiếu trí tuệ. Nếu ta biết nhân mà không biết quả, thì cũng là thiếu trí tuệ. Chúng ta phải biết cả hai cùng với chánh niệm và sự tỉnh giác. Đây là cái được coi là sự hiểu biết tròn đầy, trọn vẹn. Sự hiểu biết toàn diện phát sinh bên trong chúng ta xuất phát từ nhân và quả, không phải từ những gì chúng ta đọc trong sách, nghe người khác, hoặc tự mình phỏng đoán.
Giả sử chúng ta có một ít đồng xu bằng bạc trong túi. Nếu chỉ nghe người khác nói đó là tiền, ta không biết phẩm chất của nó. Nhưng nếu chúng ta thử nghiệm bằng cách đặt đồng xu đó vào lò luyện kim để xem nó được làm bằng gì và để xem ta có thể tạo nó thành thứ khác như thế nào. Đó là khi chúng ta biết các phẩm chất thực sự của nó. Đây là kiến thức xuất phát từ hành động của bản thân.
Chánh niệm là thứ mang lại ánh sáng cho tâm trí, giống như một ngọn nến. Nếu chúng ta mang nến vào phòng vào ban đêm, đóng tất cả các cửa lại, che chắn các vết nứt trên tường, để không có chút gió nào từ bên ngoài có thể lọt vào, làm cho ngọn lửa dao động. Nến sẽ tỏa ra nhiều ánh sáng hơn, và chúng ta sẽ có thể nhìn thấy mọi thứ trong phòng một cách rõ ràng.
Trong thiền định, kiến thức này có năm dạng. Chúng ta thấy trong bản thân mình có một số thứ được gây ra bởi các thuộc tính của thân, một số là do tâm gây ra, một số nguyên nhân đến từ tâm nhưng lại ảnh hưởng đến thân, một số nguyên nhân là từ thân nhưng ảnh hưởng đến tâm, một số nguyên nhân đến từ cả thân và tâm. Loại hiểu biết này là trí tuệ. Vì vậy, chúng ta phải học hỏi từ giới, định và tuệ bằng cách làm phát sinh ra chúng. Nếu không làm như vậy, ta sẽ phải chịu đựng vô minh và ảo tưởng.
Chánh niệm là thứ mang lại ánh sáng cho tâm trí, giống như một ngọn nến. Nếu chúng ta mang nến vào phòng vào ban đêm, đóng tất cả các cửa lại, che chắn các vết nứt trên tường, để không có chút gió nào từ bên ngoài có thể lọt vào, làm cho ngọn lửa dao động. Nến sẽ tỏa ra nhiều ánh sáng hơn, và chúng ta sẽ có thể nhìn thấy mọi thứ trong phòng một cách rõ ràng.
Đóng các cửa lại và che lấp các vết nứt có nghĩa là kiềm chế mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm của mình, để sự chú tâm của chúng ta không bị phóng theo các quan điểm và những mối bận tâm bên ngoài. Điều này được gọi là sự kiềm chế thông qua chánh niệm. Chánh niệm của chúng ta sẽ hợp thành một. Khi chánh niệm mạnh mẽ, kết quả ngay trước mắt là: cảm giác thoải mái và tinh thần phấn chấn.
Khi chánh niệm vững chắc, không bị lung lay, sự tập trung của ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Tâm sẽ tĩnh lặng và trong sáng. Ánh sáng sẽ phát sinh ở một trong hai cách: từ bên trong ra hoặc từ những gì được phản chiếu trên tường. Đây là lý do tại sao chánh niệm là nguyên nhân, là yếu tố hỗ trợ, giúp cho sự tập trung của chúng ta phát triển. Vì lý do này, chúng ta cần đánh giá cao phẩm chất tinh thần này.
Khi ta biết rằng một số nguyên nhân nào đó làm phát sinh hạnh phúc và an tịnh, thì ta nên quan tâm đến chúng. Cũng giống như khi người khác chia sẻ thức ăn với ta. Ta không nên quên lòng tốt của họ. Hoặc khi cha mẹ nuôi nấng, dạy bảo ta từ khi ta còn nhỏ: Khi lớn lên và có thể tự lập trong cuộc sống, ta không nên quên ơn họ. Chúng ta phải thể hiện lòng biết ơn của mình và luôn chăm sóc họ để đền đáp lòng tốt của họ. Chỉ khi đó ta mới có thể tiến bộ trong cuộc sống mà không bị đẩy lùi.
Vì vậy, chánh niệm giống như cha mẹ của chúng ta. Phải luôn luôn chăm sóc nó, vì nó là mẹ của tất cả các phẩm chất tịnh hảo. Lý do chúng ta đạt được bất kỳ hạnh phúc nào trong cuộc sống là nhờ chánh niệm. Vì lý do này, chánh niệm là thứ mang lại sự bình an cho tâm. Ngồi đây và để tâm trí được tĩnh lặng thực sự không là việc khó làm. Lý do nó có vẻ khó khăn là vì chúng ta hiểu lầm mọi thứ. Quan điểm chúng ta sai lầm, và các giả định của ta cũng vậy. Nếu quán xét để hiểu điểm này, chúng ta sẽ biết sự thật.
Ví dụ, khi nghĩ rằng tâm đi đây, đi đó, thì sự thật không phải vậy. Đó chỉ là một định kiến. Trên thực tế, tâm không rời thân. Những gì ra đi chỉ là ánh sáng, như với một chiếc đèn pin. Bóng đèn vẫn ở trong cây đèn; chỉ là ánh sáng biến đi. Bóng đèn và ánh sáng là hai thứ khác nhau. Bóng đèn có ánh sáng, nhưng ánh sáng bên ngoài cây đèn. Tâm - sự nhận thức - ở bên thân trong từng hơi thở vào ra. Kiến thức lóe lên không phải là điều có thật. Bạn không thể lấy ánh sáng và đặt nó trở lại trong cây đèn, giống như khi ta cố gắng bắt một chùm ánh sáng, nó không dính vào tay ta.
Như vậy, nếu tâm có mặt trong hiện tại, thì tại sao chúng ta còn phải hành thiền, định tâm? Chúng ta thực hành định tâm vì có hai loại lửa hoặc điện trong tâm: lửa nóng, lửa của tham, sân và si; và ngọn lửa mát mẻ, ngọn lửa của jhāna, hoặc sự hấp thụ tâm linh. Nếu ta biết cách rèn luyện tâm thức, thì ta sẽ gặp ngọn lửa mát mẻ. Lửa nóng có hại cho các dây thần kinh của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Các giác quan của ta giống như bóng đèn. Các dây thần kinh giác quan giống như các sợi dẫn điện trong bóng đèn. Nếu ta nối chúng sai loại điện, chúng sẽ nổ ngay lập tức. Nếu ta nối chúng vào đúng dòng điện, nhưng không bao giờ tắt điện, chúng sẽ hao mòn.
Vì thế, ta sẽ hành thiền định để có dòng điện mát, ngọn lửa mát của jhāna. Dòng điện mát không làm hỏng các giác quan và cho phép ta sử dụng các giác quan để nhìn thấy sự thật, để hiểu mọi thứ chúng ta nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy tư. Như thế, tâm có thể được mát mẻ và bình yên. Đây là kỹ năng thiền quán.
Khi các cảnh đập vào mắt, nhãn thức nảy sinh ngay khi tiếp xúc, và ta có thể nhìn thấy chúng với tuệ giác. Khi âm thanh đập vào tai, khi mùi chạm mũi, khi vị đến lưỡi, khi xúc chạm đến thân, hoặc ý khởi lên ở tâm, tuệ giác sẽ có mặt ngay đó. Nhờ thế, cảnh không dính vào mắt, và mắt không dính nơi cảnh; âm thanh không dính vào tai, tai không dính vào âm thanh.
Cũng thế đối với mũi, lưỡi, thân và ý. Dầu chúng cảm nhận điều gì, chúng cũng không biết bản chất của những thứ đó. Đây được gọi là vô thức. Nó làm phát sinh tham dục, và uế nhiễm, đưa đến khổ đau. Đây là vô minh đối với chân lý. Người không biết sự thật giống như kẻ mù. Họ luôn gặp khó khăn khi đi đứng, nghĩ cái cao ra thấp, cái thấp ra cao - như khi người mù đi trên mặt đường bằng phẳng, nhưng giơ cao chân lên vì sợ rằng mình sẽ vấp vào thứ gì đó.
Cũng thế, người không biết đến sự thật, nghĩ rằng Pháp sâu thẳm là nông cạn, Pháp nông cạn là sâu sắc; Pháp cao là thấp, Pháp thấp là cao. Đó là quan điểm sai lầm. Khi quan điểm của bạn sai, sự thực hành của bạn sẽ sai; sự xả ly của bạn sai - giống như khi bạn nhấc chân lên chỗ không có bậc thềm. Có những người muốn đưa bản thân lên một tầm cao mà không có căn bản chân chính. Tâm họ không tập trung. Họ tiếp tục đi, suy tư, tưởng tượng về Pháp thượng đẳng, nhưng cuối cùng họ quay trở lại điểm bắt đầu.
Họ giống như một người mù đang cố gắng leo lên một cầu thang thiếu bậc thang cuối. Người đó sẽ chỉ giậm chân một chỗ. Các bậc thang là giới, định và tuệ. Nếu đi theo các bước, chúng ta sẽ đến nơi muốn đến - giống như người có thị lực tốt leo cầu thang thực sự có các bậc thang. Người thực hành thiền định có thể biết mọi thứ cho dù mắt họ nhắm hay mở, vì họ có ánh sáng bên trong.
Pháp hành là hiện tượng vật chất và tâm linh của ta: các uẩn, các yếu tố và giác quan. Những thứ này cũng phát sinh và qua đi theo cách tương tự. Vì vậy, khi chúng có mặt, ta nên sử dụng chúng một cách hiệu quả. Nếu không chúng sẽ quay lại và não hại chúng ta. Nếu ta không cố gắng rèn luyện chúng, thì chúng chỉ đơn giản là các hiện tượng. Nhưng nếu chúng ta rèn luyện chúng, càng ngày ta càng nhận được nhiều giá trị hơn từ chúng.
- Saṅkhāra (Hành) có nghĩa là những thứ được hình thành mà chúng ta phải nghiên cứu để biết rõ chúng là gì. Và chúng ta cũng phải khôn ngoan với chúng. Có hai loại: Hành trong thế gian là những thứ như sự đạt được, địa vị, lời khen và niềm vui. Những thứ này phát sinh và sau đó qua đi. Pháp hành là hiện tượng vật chất và tâm linh của ta: các uẩn, các yếu tố và giác quan. Những thứ này cũng phát sinh và qua đi theo cách tương tự.
Vì vậy, khi chúng có mặt, ta nên sử dụng chúng một cách hiệu quả. Nếu không chúng sẽ quay lại và não hại chúng ta. Nếu ta không cố gắng rèn luyện chúng, thì chúng chỉ đơn giản là các hiện tượng. Nhưng nếu chúng ta rèn luyện chúng, càng ngày ta càng nhận được nhiều giá trị hơn từ chúng. Giống như với đất sét: Nếu đủ thông minh, chúng ta có thể nặn nó thành nồi để nấu thức ăn. Hoặc hơn thế nữa, ta có thể biến chúng thành ngói để che mái nhà. Nếu tô thêm một lớp men trên ngói, chúng còn trở nên có giá trị hơn. Tất cả phụ thuộc vào sự hiểu biết của chúng ta trong cách làm tăng giá trị của sự vật.
- Hơi thở là thân hành, tức là yếu tố tạo nên thân. Khẩu hành là những suy nghĩ mà bạn diễn đạt thành lời để khi cần nói bạn đã sẵn sàng, nhưng chưa nói ra. Tâm hành là những suy nghĩ không liên quan đến việc nói. Bạn chỉ cần suy nghĩ và biết mình suy nghĩ về điều gì. Khẩu và tâm hành rất giống nhau. Trong việc rèn luyện tâm, điều quan trọng là nỗ lực để ngăn chặn khẩu hành phát sinh. Cho dù đó là việc trong quá khứ hay tương lai, bạn phải gạt bỏ tất cả.
- Thân hành là khía cạnh hiện tại của thân, tức là hơi thở. Tâm hành là khía cạnh hiện tại của tâm, tức là nhận thức tạo nền tảng cho tư duy. Tâm hành tạo thành bản chất của khổ đau. Các hành chỉ có giá trị với kẻ ngu. Bạn phải thổi bay hết khói mới thấy được ngọn lửa. Bạn phải loại bỏ các hành khỏi tâm nếu bạn muốn thấy được cái Chân thật.
- Tận hưởng dục lạc nơi cảnh, thanh, hương, vị, v.v…, là sự khát ái. Trạng thái tâm lang thang đi ra ngoài để tìm kiếm đối tượng nhưng chưa tìm được điều gì làm hài lòng nó, là khao khát được hiện hữu. Trạng thái tâm dao động hoặc chao đảo trong mối bận tâm hiện tại của nó là khao khát được không có mặt. Không biết những khía cạnh này của tâm là vô minh.
- Những thứ được gọi là quá khứ và tương lai là “thế tục”. Hiện tại là Pháp. Đừng để bản thân bị cuốn hút bởi ngay cả những tên gọi giản đơn nhất. Ngay cả khi bạn chỉ tham gia một chút, đó là một trạng thái của hữu, của việc trở thành, và bạn sẽ phải khổ nhiều hơn vì sinh, lão, bệnh, tử.
- Kỹ năng buông bỏ là khi “quá khứ” chỉ đơn giản là một sự kiện, “tương lai” chỉ đơn giản là một sự kiện, và “hiện tại” cũng thế, nhưng không tạo nghiệp. Bạn có thể nghĩ về quá khứ, nhưng tâm không nắm giữ điều gì từ suy nghĩ đó. Để tâm trí đạt được sự vô nhiễm, bạn phải có khả năng xác định điều gì bất lợi trong hiện tại để có thể loại bỏ ngay bất cứ nhiễm chấp nào. Quá khứ không thật, tương lai không thật. Nếu là thật, chúng sẽ phải ở lại với ta mãi mãi. Nếu thông minh, bạn sẽ không nuốt lại những thứ mà bạn đã nhổ ra.
- Si và tham ái giống như ăn, nuốt, hay dồn nén. Vô si giống như nhổ ra hoặc vứt bỏ. Nếu bạn chấp nắm vào những thứ đã qua hay chưa có được, đó là tham ái và si mê. Vô si, giống như khi thức ăn chạm vào lưỡi, bạn nhận biết ngay và nhổ nó ra trước khi nuốt vào.
- Khi Đức Phật chưa xuất gia, Ngài đã cố gắng truy tìm nguồn hạnh phúc đích thực. Ngài tự hỏi mình, “Giàu sang có mang lại hạnh phúc không?”. Nhưng khi nhìn vào sự giàu có, Ngài thấy rằng nó không hoàn hảo. Vì thế, Ngài chuyển sang tri thức, nhưng tri thức cũng không hoàn hảo. Ngài chuyển sang quyền lực, nhưng Ngài thấy quyền lực đưa đến giết chóc, chiến tranh. Ngài đã suy ngẫm về những điều như thế, tự hỏi mình có thể làm gì để tìm được hạnh phúc thực sự. Cuối cùng Ngài nhận ra rằng hạnh phúc đến từ nỗi đau, nỗi đau đến từ hạnh phúc. Thế gian phải tiếp tục quay cuồng như thế. Và khi một cái gì đó quay tròn, nó phải có cái trục - nếu không, làm sao nó có thể quay? Vì vậy, khi có một cái gì đó quay, cũng phải có một cái gì đó không quay. Ngài tiếp tục suy ngẫm về điều này cho đến khi Ngài tìm thấy nguồn gốc của tất cả những thứ quay và không quay, nằm ngay trong tâm.
- Có hai loại hiểu biết: cái biết thật và cái biết do bắt chước. Cái biết thật là những gì ở ngay tại đây và bây giờ, chứ không đi nơi nào khác. Bạn biết khi mình đang đứng, đang nằm, nói, suy nghĩ, v.v… Đối với cái biết do bắt chước, đó là cái biết chạy theo tưởng và nhãn hiệu. Gắn nhãn, đặt tên là hành động của cái biết, chứ chính chúng không phải là cái biết. Chúng giống như cái bóng của sự hiểu biết. Cái biết thật là chánh niệm đến hiện tại, nhìn thấy được nhân và quả. Đó là trí tuệ phân biệt.
- Cái biết chạy theo tên gọi, phù hợp với kinh điển hay với dư luận, đều là cái biết do bắt chước, không phải là cái biết thật. Nó là cái bóng của sự hiểu biết. Cái biết thật là cái biết phát sinh tự trong ta, hoàn toàn cá nhân. Đó là cái biết không thể dạy và không thể giảng nói. Nó phải phát sinh trong bạn. Chỉ khi đó bạn mới biết điều gì là vô thường, khổ và vô ngã; và những gì là thường, lạc và có ngã. Cái biết chuyển hóa này nhìn thấy cả hai mặt và buông bỏ cả hai.
Pháp tánh là Dhammaṭhiti, trạng thái tâm bất biến. Các hoạt động và trạng thái của tâm chỉ là cái bóng hoặc cái biết do bắt chước. Khi thực hành Pháp, bạn muốn cái biết chân thật. Nếu không thực sự tu tập, bạn sẽ chỉ thấy cái bóng của Pháp. Do đó, ta phải thực hành để cái biết chân thật sẽ xuất hiện trong ta.
- Pháp tánh, bản chất của nó bất biến. Nó không thay đổi hay dao động, tăng giảm theo các đối tượng tâm. Đó là tâm được giải thoát khỏi khổ đau, là tâm phù hợp với bản chất thực sự của nó. Mặc dù có thể có những suy nghĩ, nói năng hoặc hành động theo đủ mọi cách, nhưng tâm chỉ nhận thức chúng. Tâm không biểu hiện bất cứ sự thay đổi nào khác với bản chất nguyên thủy của nó. Thí dụ mình đặt một cái ly ở đây, mà không có ai, hay bất cứ điều gì chạm tới, hay di chuyển nó. Nó sẽ ở ngay đó trong mười năm, một trăm năm, mà không bị vỡ. Pháp tánh giống như thế, được gọi là Dhammaṭhiti.
- Hãy luôn quán tưởng sự vô thường, khổ và vô ngã trong mọi thứ - nhưng bạn cũng phải nhìn chúng về mặt thường, lạc và có ngã. Bạn phải nhìn mọi thứ từ cả hai phía, chứ không chỉ nhìn vào những thiếu sót của chúng. Bạn cũng phải xem xét công dụng của chúng, nhưng đừng chấp vào bên nào. Nếu không, bạn sẽ giống như người chỉ có một mắt: Tính thường hằng, lạc và có ngã, sẽ có thể len vào, đập đầu bạn mà bạn không hay.
- Trí tuệ có hai mặt: một bên nhìn sự vật phù hợp với những gì chúng ta được dạy và bên kia nhìn theo hướng khác. Cái nhìn phù hợp với những gì mọi người thấy có thể đưa đến tà kiến. Còn nhìn theo hướng khác có nghĩa là nhìn thấy những điều người ta không nói đến. Ở đâu họ nói không có sự thường hằng, ở đó có thường hằng. Ở đâu họ nói có khổ, ở đó có sự an lạc. Ở đâu họ nói vô ngã, ở đó có bản ngã. Đó là cái nhìn trực giác.
- Những người đã đạt được sự siêu việt là các bậc: Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai và A-la-hán quả: Các thuật ngữ này áp dụng, không phải cho mọi người, mà cho tâm.
Ajahn Lee Dhammadaro
Diệu Liên Lý Thu Linh lược dịch