GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH BÌNH ĐỊNH

Tiểu sử Ni Trưởng Thích Nữ Tâm Hoa 1916-2018

 

– Chứng minh Phân ban Ni giới thuộc Ban Tăng sự TW. GHPGVN

– Nguyên Phó Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Định

– Chứng minh Phân ban Ni giới thuộc Ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Bình Định

– Viện chủ tổ đình Tâm Ấn, phường Lê Lợi, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

  1. THÂN THẾ VÀ THIẾU THỜI

Ni trưởng thế danh Nguyễn Thị Diệp, húy thượng Tâm hạ Hoa, hiệu Thiền Dung, tự Diệu Liên, thuộc hệ phái Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 43, sinh năm 1916 tại làng Tân An, thành phố Cần Thơ. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Quý Công, hiệu Từ Phúc Nhơn, là một nhà nho, uyên thâm về đạo Khổng và đạo Lão. Thân mẫu là cụ bà Đào Thị Lớn, pháp danh Giác Xuân, một Phật tử rất thuần thành thâm tín Phật pháp. Hai thân sinh vốn quê làng Lộ Bao, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Xuất thân từ một gia đình Nho giáo, tin Phật, được thân mẫu thường xuyên giảng giải về giáo lý nhà Phật nên từ nhỏ Ni trưởng đã thấm nhuần giáo lý Phật đà và mang trong mình tấm lòng từ bi, vị tha vô hạn, không nỡ đưa tay sát hại một sinh linh nào dù rất nhỏ. Tuy là con thứ trong gia đình, nhưng được cha mẹ thương yêu chiều chuộng nhất, hàng ngày thường theo mẹ đến chùa lễ Phật, tụng kinh, bái sám và học hỏi giáo lý.

Ngày tháng trôi qua, Ni trưởng đã huân sâu bản hoài cao rộng “cát ái từ thân, xuất gia tầm sư học đạo”. Nhiều lần xin song thân cho đi xuất gia, nhưng đều bị ông bà chối từ vì ngại xa con thơ. Do thuận duyên chưa đến và cũng để đến đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của hai đấng song thân, Ni trưởng đành ở lại nhà chăm lo học tập, hiếu thảo với cha mẹ, chờ đợi cơ duyên chín muồi để thực hiện hoài bão lớn lao. Đến năm 17 tuổi, chí nguyện xuất trần quá mạnh nghĩ mình không thể chần chờ thêm nữa, Ni trưởng quyết tâm lên đường phát túc siêu phương.

Ngày 18/2/1932 (17 tuổi), sau khi từ giã cha mẹ, Ni trưởng được HT. thượng Đạt hạ Quang, tự Tôn Minh, hiệu Huệ Định, trụ trì chùa Phước Long, Cái Tàu hạ, tỉnh Sa Đéc thâu nhận làm đồ đệ. Đến tháng 5/1932, Ni trưởng được Hòa thượng làm lễ quy y và thế phát.

Đến năm 1935 (20 tuổi), Hòa thượng trụ trì chùa Phước Long thấy mình tuổi đã cao, và nhận thấy đồ đệ tuy thân nữ nhi nhưng chí hướng đáng bậc trượng phu, ham mê học hỏi, nghiên cứu kinh sách, có thể làm được việc lớn nên gửi Ni trưởng cho HT. thượng Trùng hạ Thông, tự Chơn Thường, hiệu Tịnh Khiết (là Đệ nhất tăng thống GHPGVNTN) trụ trì chùa Tường Vân, Huế làm Bổn sư. Không bao lâu Hòa thượng Phước Long viên tịch, Ni trưởng được Hòa thượng chùa Tường Vân ban cho Pháp danh thượng Tâm hạ Hoa, tự Diệu Liên, hiệu Thiền Dung.

Cuối năm 1935, Hòa thượng mở Giới đàn phương trượng cho thọ giới Sa di ni và Thức xoa ma na do quý HT. Trí Thủ HT. Mật Nguyện, HT. Mật Thể HT. Thiện Hòa. HT. Thiện Hoa… làm Thập sư.

Năm 1937 (22 tuổi), Ni trưởng thọ giới cụ túc do HT. Kim Huê làm Đàn đầu, Hòa thượng Vạn An làm Yết ma A-xà-lê, Hòa thượng Bảo Sơn làm Giáo thọ nhưng Giới đàn này chưa đúng pháp.

Mãi đến năm 1943 (28 tuổi), tất cả quý Ni trưởng thỉnh cầu quý Hòa thượng cho thọ giới lại để Giới đàn được trang nghiêm y luật. Giới đàn này do HT. Tôn Thắng ở Đà Nẵng làm Đàn đầu, HT. Trí Thủ làm Yết ma. HT. Mật Hạnh làm Giáo thọ, HT. Giác Phong là Đệ nhất tôn chúng. HT. Chơn Không hiệu Từ An là Đệ nhị tôn chúng… (Lúc đó Giới đàn không đặt tên).

  1. QUÁ TRÌNH TU HỌC

Đầu năm 1932, Ni trưởng tu học tại chùa Phước Long.

Đến năm 1933, Ni trưởng ra Huế tu học tại chùa Từ Đàm.

Năm 1934, Ni trưởng tu học tại chùa Quan Âm, thuộc ngã năm Bình Hòa, tỉnh Gia Định. Xét thấy việc học không tiến triển nên năm 1935, Ni trưởng trở ra Huế học tại Ni viện Diệu Đức.

Cuối năm 1937, quý Ni trưởng miền Nam đã trưởng thành, cùng nhau trở lại Cái Tàu hạ, vận động mở Ni viện tại chùa bà Ba Sàng để tiếp tục học, lớp học này do quý HT. Kim Huê, HT. Mật Hiển và Ni trưởng Diệu Tịnh cùng đảm trách.

Năm 1939-1940, Ni trưởng tiếp tục lên Cái Khoa chùa Vạn An học cũng do Phật quý Hòa thượng trên đảm trách.

Năm 1942, Ni trưởng trở về Nha Trang, học tại chùa Hải Đức, do HT. Giác Phong và HT. Bích Nguyên đảm trách.

Năm 1943, Ni trưởng vào Thủ Đức học với HT. Phước Tường cho đến cuối năm 1954.

Năm 1955, Ni trưởng học ở Đà Lạt và học khóa giảng sư với HT. Thiện Minh và HT. Trí Nghiêm.

Mặc dù thời kỳ khó khăn, trường lớp chưa được mở quy mô, là Ni giới với tấm thân yếu đuối, nhưng Ni trưởng vẫn không ngại khó khăn, bôn ba đây đó khắp các miền để học tập, nghiên tầm giáo điển, hầu dìu dắt Ni chúng trong mai hậu.

  1. CÔNG HẠNH – HÀNH ĐẠO

Sau khi từ giã song thân, Ni trưởng bán đi số tư trang được hai đấng sanh thành sắm cho từ nhỏ, cùng với sự chắt chiu dành dụm, không bao lâu mua được một lô đất và lập nên ngôi chùa Quan Âm (ngã năm Bình Hòa, bấy giờ thuộc tỉnh Gia Định). Trong thời gian tham học khắp nơi để nghiên tầm giáo lý Phật đà, với bản hoài tiếp độ Ni chúng, Ni trưởng nhận thấy quê hương Bình Định đương thời vẫn chưa có chúng Ni. Cơ duyên đã đến, Ni trưởng về Bình Định và tiếp nhận chùa Sanh Liên, thuộc thôn Trung Ái, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thời kì chiến tranh, dân chúng nghèo khổ, ngôi chùa chỉ đơn sơ mái tranh vách đất. Đến năm 1949, xét thấy tín đồ lui tới lễ bái ngày một đông đúc, Ni trưởng cho tu bổ, sửa chữa lại bằng mái ngói thật trang nghiêm và quang đãng hơn.

Trong 9 năm kháng chiến, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm hoành hành khắp nơi, thương người dân quê mù chữ, Ni trưởng đã khuyến khích và động viên các cháu đến chùa học chữ. Ni trưởng tiếp nhận đổ chúng và giảng dạy kinh luật luận mỗi đêm về.

Năm 1956, sau mùa An cư kiết hạ tại Đà Lạt, Ni trưởng trở về Quy Nhơn. Nơi đây duyên lành lớn, vợ chồng ông Tạ Xuân Lan cảm bội ơn đức tu hành và đạo hạnh của Ni trưởng đã phát tâm cúng dường mảnh đất diện tích gần 1.800m để xây dựng chùa và Chùa Tâm Ấn được Ni trưởng khai sơn từ đó. Đạo tràng thành lập, trang nghiêm huy hoàng, phạm vũ trùng quang Phật tử về tu học ngày một hưng long.

Năm 1960, chùa Sanh Liên khi xưa quá chật, lại ở trong xóm xa, bất tiện cho việc đi lại và hoằng hóa, Ni trưởng đã dời ngôi chùa cũ ra quốc lộ 19, xây dựng mới toàn bộ nhưng vẫn giữ nguyên hiệu chùa Sanh Liên. Công trình xây dựng đến tháng 12/1962 mới được hoàn thành.

Năm 1962, lúc bấy giờ Ni bộ thành lập trụ sở TW tại tổ đình Từ Nghiêm, thuộc đô thành Sài Gòn, nay là TP. Hồ Chí Minh, Ni trưởng giữ chức Trưởng ban Ni bộ tỉnh Bình Định và Phó Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định.

Năm 1970, Ni trưởng nhận thêm chùa An Thạnh tại An Mỹ, Pleiku, Gia Lai (tục gọi là chùa bà Cửu Tám). Trải qua thời gian lâu xa, ngôi chùa này đã cũ nát lại thêm chật hẹp, nơi thờ phụng tín ngưỡng cho Phật tử không được trang nghiêm. Năm 1972, Ni trưởng trùng tu ngôi chánh điện và chọn hướng chánh điện theo hướng chánh Nam, khang trang và rộng rãi hơn. Năm 1974, suy cử Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Thiện là đệ tử làm trụ trì, tiếp tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp tại chùa An Thạnh, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Năm 1975, suy cử Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Trực trụ trì chùa Sanh Liên, thôn Trung Ái, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn.

Năm 1958, quý Hòa thượng, Thượng tọa tỉnh Bình Định thành lập tu viện Nguyên Thiều. Sơ khởi tài chánh còn thiếu, Ni trưởng phát tâm hỷ cúng tài chánh và động viên quý Phật tử cúng dường để công tác của chư Tôn đức được sớm viên mãn.

Năm 1958 – 1975, Ni trưởng cùng với quý Ni trưởng tại miền Nam mở nhiều Giới đàn tổ chức tại chùa Từ Nghiêm. Ni trưởng luôn là Đệ nhất tôn chứng và trong Ban giám khảo

Năm 1972, Ban Điều hành Ni viện Diệu Quang cũng mời Ni trưởng vào Nha Trang để bàn lo việc Giới đàn và làm Đệ nhất tôn chứng. Cùng năm ấy, Ni trưởng được mời ra Đà Nẵng làm Đệ nhất tôn chúng cho Giới đàn Vĩnh Gia (bên Ni).

Ni trưởng thượng Tâm hạ Đăng trụ trì chùa Linh Sơn, Nha Trang mở Giới đàn cũng mời Ni trưởng làm Đệ nhất tôn chứng.

Ni trưởng thượng Vĩnh hạ Bửu mở Giới đàn tại chùa Hương Tích, Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh) và mời Ni trưởng làm Yết Ma.

Ngoài ra, trong những năm kể trên, Ni trưởng cũng đã từng khai đàn thí giới tại chùa Tâm Ấn cho các giới tử trong và ngoài tỉnh thọ Sa-di-ni và Thức-xoa-ma-na. Những Giới đàn này Ni trưởng luôn làm Hòa thượng đàn đầu, Ni trưởng thượng Tịnh hạ Viên làm Yết-ma, Ni sư Hạnh Nghiêm làm Giáo thọ.

Năm 1989, Ni trưởng làm Hòa thượng đàn đầu (Ni giới) cho Giới đàn Nguyên Thiều tại chùa Tâm Ấn do Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định tổ chức.

Năm 1992, Ban Trị sự tỉnh nhà mở trường Cơ bản Phật học tại tu viện Nguyên Thiều. Giáo hội bây giờ còn đang khó khăn, tạm thời ban đầu chỉ có chỗ tạm trú cho Tăng sinh, còn Ni sinh thì chưa có chỗ ở nội trú chính thức. Ni trưởng ngày đêm trằn trọc, băn khoăn, lo lắng thương cho đàn hậu học. Cuối cùng, Ni trưởng đã xin HT. Đổng Quán cho phép Ni sinh tạm trú tại chùa Thiên Hòa trong một thời gian để đi học cho gần. Nhưng đến mùa nước lũ, nước tràn bờ, ngập đồng chảy xiết, người đi qua lại con sông rất nguy hiểm, huống gì thân Ni lưu yếu đuối, làm sao vượt qua dòng nước để được đến trường học Phật pháp, Ni trưởng lại một lần nữa trăn trở, thao thức, lo âu. Đến cuối năm đó, Ni trưởng xin quý Hòa thượng cho phép thành lập cư xá Ni trong khu vực tu viện Nguyên Thiều và được sự hoan hỷ chấp thuận của Đại Tăng. Với mong ước công trình được hoàn thiện đưa vào sử dụng sớm nhất, Ni trưởng viết thư cho đệ tử của mình ở Mỹ là NT. Nguyên Thanh, vận động quý Phật tử tại hải ngoại và kêu gọi sự hỷ cúng của chư Tôn đức Ni trong bản tỉnh và Phật tử gần xa. Nhờ đó, cư xá Ni được thành lập, chúng Ni có nơi chốn an tâm tu học, phát triển trí tuệ, ươm mầm tuệ giác.

Năm 1993, tuổi hạc càng cao, sức mòn lực yếu, tuy vậy Bồ đề tâm càng thêm kiên cố, Ni trưởng phát nguyện đại trùng tu Đại hùng Bảo điện chùa Tâm Ấn trang nghiêm, tín đồ Phật tử hân hoan ngày càng về đông tu tập, đến năm 1995 hoàn thành.

Năm 1994, Ni trưởng làm Hòa thượng Đàn đầu (Giới đàn Ni) Đại giới đàn Phước Huệ do GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức.

Năm 2000, Ni trưởng làm Hòa thượng Đàn đầu (Giới đàn Ni) Đại giới đàn Chánh Nhơn do GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức.

Năm 2001, Ni trưởng tiếp tục tái thiết nhà hậu Tổ. Từ đây phạm vũ huy hoàng, đèn thiền tỏ rạng.

Năm 2004, Ni trưởng làm Hòa thượng Đàn đầu (Giới đàn Ni) Đại giới đàn Huệ Chiếu, GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức.

Năm 2010, Ni trưởng làm Hòa thượng Đàn đầu (Giới đàn Ni) Đại giới đàn Cam Lộ do GHPGVN tỉnh Gia Lai tổ chức.

Năm 1981 GHPGVN thành lập, Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Định ra đời, Ni trưởng đảm trách chức vụ Phó Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Định.

Trong những năm lo công tác Phật sự, Ni trưởng vẫn không quên nghiêm trì giới luật và sách tấn môn đồ cũng như hàng Ni chúng trong bản tỉnh tu học. Mỗi năm vào mùa An cư kiết hạ, Ni trưởng thường dạy kinh luật cho Ni chúng trường hạ, chú trọng nhất là hai bộ luật: Tỳ-kheo-ni sao và Tứ phần lược ký.

  1. TIẾP TĂNG ĐỘ CHÚNG

Song song với công tác Phật sự: xây dựng, trùng tu, kiến thiết chùa chiền, Ni trưởng không quên bổn phận của người xuất gia là: “Tiếp dẫn hậu lại, báo Phật ân đức”. Năm 1980, thấy mình đã lớn tuổi nên không thâu nhận đệ tử nữa. Những vị xuất gia sau này đều giao cho Ni trưởng Hạnh Quang đảm nhận, để mai sau có người chung lo Phật sự với Ni trưởng tại tổ đình Tâm Ấn. Hiện tại Ni trưởng có hơn 50 vị đệ tử, hầu hết đều thành đạt, trụ trì rải rác khắp mọi miền đất nước và hải ngoại.

  1. NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Vẫn biết cảnh đời mộng huyễn, sắc thân do tứ đại hợp thành nên không tránh khỏi cảnh sanh, lão, bệnh, tử. Ni trưởng một đời lao tâm, lao lực, đem hết tâm nguyện phục vụ đạo pháp. Những ngày nằm trên giường bệnh, tuy thân nằm đó những tâm trí vẫn lo lắng cho Ni chúng tỉnh nhà và sự trường lưu của Ni chúng trong mai hậu. Thân bệnh nhưng tâm không bệnh, Ni trưởng vẫn rất sáng suốt dạy bảo những điều Phật sự quan trọng khi có Ni chúng thỉnh. Dặn dò chúng đệ tử những điều cần làm sau khi Ni trưởng viên tịch.

Lúc nào Ni trưởng cũng nhắc nhở hàng đệ tử, hãy khắc ghi trong lòng và thực hành lời dạy của ngài Hương Hải Thiền sư:

“Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy;

Nhạn vô di tích chi ý,

Thủy vô lưu ảnh chi tâm”

Như trái cây đã chín, như cuộc hành trình dài đã đến đích, Ni trưởng an nhiên thị tịch vào lúc 12 giờ 43 phút ngày 01/8/Mậu Tuất (nhằm ngày 10/9/2018).

Trụ thế 102 năm, 80 hạ lạp.

Ni trưởng xứng đáng là bậc “Tòng lâm thạch trụ”, là cây đại thọ che mát cho Ni chúng tỉnh nhà và môn đồ các chúng khắp nơi. Tinh thần lợi tha, phụng sự của Ni trưởng vẫn còn mãi với Đạo pháp. Lời dạy của Ni trưởng vẫn khắc sâu vào ký ức của chúng con. Sự ra đi của Ni trưởng vào Niết bàn bất sinh, bất diệt, để lại niềm tiếc thương vô hạn với Môn đồ, Pháp phái, chư Tôn Thiền đức Tăng Ni và Thiện nam tín nữ Phật tử xa gần.

NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP TAM THẾ, TƯỜNG VÂN PHÁP PHÁI, KHAI SƠN TÂM ẤN, THIÊN DI SANH LIÊN, TÁI TẠO AN THẠNH TỰ, Húy thượng TÂM hạ HOA, Tự DIỆU LIÊN, Hiệu THIỀN DUNG, Ni trưởng Bổn sư GIÁC LINH THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.

TANG MÔN PHÁP QUYẾN ĐỒNG KHỂ THỦ

 

 

Lên đầu trang